TS. Nguyễn Hữu Vạn
Chủ tịch Hội Sinh vật cảnh Việt Nam
1. Nhiệm kỳ hoạt động Hội gặp nhiều khó khăn, thử thách nhất.
Đầu nhiệm kỳ chịu ảnh hưởng của hậu khủng hoảng kinh tế thế giới với nền kinh tế đất nước và sản xuất nông nghiệp, sinh vật cảnh. Hai năm cuối nhiệm kỳ, vừa khắc phục những thiệt hại nặng nề của nhiều cơn bão, lũ lớn, vừa phải gồng mình hứng chịu sự tàn phá khốc liệt và dai dẳng của đại dịch Covid-19. Nhiều thời điểm thực hiện giãn cách xã hội, ưu tiên “chống dịch như chống giặc”, hoạt động sinh vật cảnh không chỉ bị tác động, nhiều sự kiện bị hoãn, hủy, sản phẩm tồn đọng, thiếu điều kiện chăm sóc; đời sống vật chất, tinh thần, việc làm, thu nhập của hội viên rất khó khăn...
2. Nhiệm kỳ nỗ lực thực hiện nhiệm vụ củng cố, kiện toàn, phát triển tổ chức Hội.
Ban Thường vụ Hội đã triển khai các giải pháp phù hợp để kiện toàn cơ cấu tổ chức, phát triển hội viên. Lấy việc phát triển hội viên tổ chức (Hội thành viên) để phát triển hội viên cá nhân. Chủ động, tích cực thực hiện các giải pháp kiện toàn tổ chức, nhân sự, đổi mới hoạt động, thành lập mới các tổ chức, đơn vị trực thuộc, mở rộng, phát triển Hội thành viên. Tích cực vận động các tổ chức, cơ sở đào tạo, doanh nghiệp trở thành hội thành viên, đơn vị liên kết của Hội: Hiệp hội Hoa Lan Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng; Trung tâm Dạy nghề Bon sai Thanh Tâm - TP. HCM; Công ty Sinh vật cảnh Sơn Hải- tỉnh Thanh Hóa; Cty XNK Cá cảnh - TP. HCM; Cty Vạn niên Tùng -Tp. HCM; Trung tâm Bảo tồn, phát triển SVC và làm vườn - tỉnh Quảng Ninh; Trường Cao đẳng Nông nghiệp & PTNT Bắc bộ; Học viện Nông nghiệp Việt Nam; Tập đoàn Ecopark, Công ty Vi Sinh AlFA Việt Nam... Về hội viên, đến cuối năm 2021 đã có trên 250.000 hội viên cá nhân. Hội viên tổ chức, ngoài 08 đơn vị trực thuộc Hội, ở các địa phương đã có 90,48% tỉnh, thành phố, 52,4% huyện, thị, 36% số xã, phường, thị trấn có tổ chức Hội; 262 đơn vị trực thuộc cấp tỉnh, huyện; trên 3.490 chi hội cơ sở; trên 400 Câu lạc bộ chuyên ngành; hơn 4.600 doanh nghiệp, HTX; hơn 11.000 nhà vườn, 100 làng nghề SVC đã được công nhận.
3. Nhiệm kỳ chuyển biến, đổi mới nhận thức, hoạt động Hội, phong trào sinh vật cảnh.
Yêu cầu đổi mới để phù hợp cơ chế, chính sách của Nhà nước, nhu cầu phát triển ngành, nghề nông nghiệp và phong trào sinh vật cảnh. Hiện tại, phong trào sản xuất, kinh doanh sinh vật cảnh không còn đơn thuần là thú chơi tao nhã, nặng ý nghĩa văn hóa, tinh thần, mà đã khẳng định xu hướng mới, phong cách mới, hướng tới các giá trị thẩm mỹ và hiệu quả kinh tế cao. Sản phẩm ngày càng phong phú về chủng loại (Cây cảnh, Hoa cảnh, Đá cảnh, Gỗ lũa nghệ thuật, Chim cảnh, Gà cảnh, Cá cảnh, Thú cảnh...). Xu thế mới của sinh vật cảnh đã theo sát, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn hóa, tinh thần của cuộc sống. Sản phẩm sinh vật cảnh có mặt khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, từ không gian rộng lớn của các công trình văn hóa, khuôn viên, đến từng gia đình, nơi công sở. Không chỉ chiêm ngưỡng sinh vật cảnh tại các cuộc triển lãm, trưng bày hoành tráng; đã xuất hiện ngày một nhiều làng nghề, nhà vườn sinh vật cảnh, không gian cảnh quan sinh vật cảnh. Sinh vật cảnh đã và đang góp phần làm cho cuộc sống tươi đẹp, thanh bình, văn minh. Những năm gần đây, sinh vật cảnh đã khẳng định vị thế, đóng góp ngày càng lớn về giá trị kinh tế, dần trở thành ngành kinh tế sinh thái, góp phần phát triển kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, khu dân cư văn minh, bảo vệ môi trường sinh thái...
4. Nhiệm kỳ xây dựng nền móng thực hiện mục tiêu xây dựng kinh tế sinh vật cảnh.
Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông nghiệp, nông thôn đã tạo cơ hội, điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu của Hội. Ngày 09/5/2019, Hội Sinh vật cảnh Việt Nam và Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đã ký kết “Chương trình phối hợp hoạt động giai đoạn 2019-2025”. Bằng quyết tâm và sự chủ động, qua 2 năm đã ghi nhận một số kết quả: Thường xuyên chia sẻ thông tin, phối hợp, tạo điều kiện hoạt động Hội và phong trào sinh vật cảnh; tạo điều kiện xây dựng một số mô hình sản xuất, kinh doanh SVC, tiếp cận các chính sách phát triển nông nghiệp, sinh vật cảnh, chuyển đổi, ứng dụng khoa học, công nghệ. Từng bước gắn hoạt động SVC với phong trào xây dựng nông thôn mới, chỉnh trang khu dân cư, cảnh quan, bảo vệ môi trường...
Phong trào sinh vật cảnh, vị thế các cấp Hội đã và đang được khẳng định ở nhiều địa phương có thế mạnh, truyền thống làm nghề. Bộ mặt nông thôn, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nơi có phong trào sinh vật cảnh đã thay đổi rõ rệt. Hội viên của Hội hầu như không có hộ nghèo, nhiều gia đình có khuôn viên, cảnh quan gia viên xanh, sạch, đẹp. Nhiều hộ gia đình, khu dân cư, làng nghề sinh vật cảnh đã trở thành điểm thăm quan, du lịch nhờ vẻ đẹp, sức hút từ cây cảnh, hoa cảnh. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, nhiều địa phương đã xác định mũi nhọn, trọng điểm là khai thác tiềm năng, thế mạnh sinh vật cảnh, phát triển nghề và làng nghề truyền thống gắn với du lịch, dịch vụ. Sinh vật cảnh không chỉ làm đẹp, xanh, sạch môi trường, mà đã thực sự mang lại những lợi ích to lớn về kinh tế. Đến đầu năm 2021, cả nước có trên 45.000 ha hoa, cây cảnh, thu nhập bình quân trên 500 triệu đồng/ha/năm; giá trị sản lượng đạt 23.400 tỷ đồng/năm; giá trị xuất khẩu gần 80 triệu USD/năm. Nhiều mô hình sản xuất hoa, cây cảnh đạt từ 1,5 đến trên 3,0 tỷ đồng/ha/năm.
5. Nhiệm kỳ để lại những dấu ấn tốt đẹp, hiệu quả trong mối quan hệ giữa Hội với các Bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương, địa phương, các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh.
Triển khai thực hiện các chính sách phát triển ngành nghề nông nghiệp, nông thôn và sinh vật cảnh, Hội đã chủ động đề xuất, tiến hành ký kết, triển khai thực hiện có hiệu quả “Chương trình phối hợp hoạt động” với Bộ NNPTNT, trọng tâm là xây dựng ngành kinh tế sinh vật cảnh. Không chỉ chủ động, tích cực phối hợp Bộ NNPTNT, Hội còn chủ động chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức Hội đề xuất nội dung, tham gia các hoạt động nhằm khẳng định vị thế, phát triển sinh vật cảnh, triển khai một số đề án phát triển hoa cảnh, cây cảnh, bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề truyền thống, xây dựng nông thôn mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp...
Hội luôn thực hiện đầy đủ trách nhiệm thành viên, hưởng ứng nhiệt tình các phong trào thi đua yêu nước do Ủy ban Trung ương MTTQVN và Liên hiệp các Hội KHKTVN phát động. Thực hiện đầy đủ trách nhiệm báo cáo về tổ chức, hoạt động với Bộ Nội vụ, Bộ NNPTNT; thực hiện nghiêm túc các quy định báo cáo, cung cấp thông tin với các Bộ, ban, ngành Trung ương theo quy định.
6. Dù gặp nhiều khó khăn, Hội vẫn tổ chức thành công một số sự kiện có quy mô lớn.
Năm 2018, Hội phối hợp với Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch, Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam tổ chức thành công Triển lãm Sinh vật cảnh toàn quốc (nhân Tuần lễ Đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam). Tháng 5/2019, Hội đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Hội Sinh vật cảnh Việt Nam; phối hợp với Ban Tôn giáo của Chính phủ và Ban Trị sự Chùa Tam Chúc - Hà Nam, 10 tỉnh, thành Hội phía Bắc tổ chức thành công triển lãm, trưng bày sinh vật cảnh nhân Đại lễ VESAK Liên hiệp quốc. Tháng 11/2019, Hội chủ trì, tổ chức thành công Festival Bonsai & Suiseki châu Á-Thái Bình Dương lần thứ 15 (tại Công viên Văn hóa Suối tiên - TP. Hồ Chí Minh). Thông qua hoạt động triển lãm, trưng bày, Hội đã có cơ hội gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, khẳng định vị thế của Hội, tiềm năng sinh vật cảnh của Việt Nam với khu vực Đông Nam Á, Châu Á-Thái Bình Dương và thế giới.
7. Nhiệm kỳ thể hiện khả năng thích ứng, linh hoạt, đổi mới trong hoạt động Hội.
Liên tục từ năm 2020 đến năm 2021, thực hiện yêu cầu phòng chống dịch, giãn cách xã hội, Hội đã không bị giám đoạn hoạt động, mà còn thực hiện nhiều đổi mới, thích ứng linh hoạt trong công tác chỉ đạo và hoạt động Hội. Chủ động chuẩn bị đầy đủ nội dung các báo cáo, duy trì giao ban, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ hằng tháng; chủ động đề xuất địa điểm, thời gian, hình thức thích hợp tổ chức các phiên họp Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Hội đồng Thi đua, khen thưởng; gắn một số hoạt động chuyên đề, nghiên cứu thực tế tại địa phương với các phiên họp Ban Chấp hành; điều chỉnh từ họp trực tiếp sang gửi tài liệu, xin ý kiến qua Email, zalo, trực tuyến... Thực hiện yêu cầu tinh gọn, chất lượng, hiệu quả trong công tác Văn phòng, Hội đã quan tâm kiện toàn nhân sự, mua sắm trang thiệt bị, ban hành quy chế, duy trì chế độ làm việc khoa học, hiệu quả. Dù chỉ có 5 nhân sự, Văn phòng Hội vẫn bảo đảm mọi hoạt động, làm chủ phương tiện, máy móc, thiết bị, đáp ứng yêu cầu hoạt động Hội, bảo đảm vai trò cầu nối với các Bộ, ngành và địa phương. 100% văn bản chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động Hội được tham mưu, soạn thảo trên máy tính, in ấn tại Văn phòng, gửi qua mạng internet (zalo, email) tới các cấp Hội, cơ quan có liên quan. Trang thông tin điện tử (Website) hoạt động thường xuyên, hiệu quả. Tạp chí Việt Nam hương sắc, cơ quan ngôn luận của Hội vẫn duy trì phát hành đúng định kỳ, chất lượng về nội dung và hình thức không ngừng được nâng cao; tôn chỉ, mục đích luôn được tuân thủ.
8. Nhiệm kỳ hoạt động Hội có nhiều cố gắng vượt bậc, được các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương ghi nhận.
Trong nhiệm kỳ, nhờ những cố gắng, thành tích hoạt động trên mọi lĩnh vực, Hội đã đạt được Ủy ban Trung ương MTTQVN, Liên hiệp các Hội KHKTVN và các Bộ, ngành trung ương đánh giá, ghi nhận bằng các hình thức khen thưởng: 03 Bằng khen của Bộ trưởng Bộ NNPTNT; 03 Bằng khen của UBTWMTTQVN; 01 Bằng khen của Chủ tịch Liên hiệp Hội KHKTVN. Ban Chấp hành Hội cũng đã phát động nhiều nội dung, phong trào thi đua, đánh giá, ghi nhận thành tích, tặng nhiều Kỷ nhiệm chương, Cờ và Bằng khen cho các tổ chức Hội, đơn vị trực thuộc, cán bộ, hội viên.
9. Nhiệm kỳ thu được nhiều bài học quý giá cho hoạt động Hội.
Một là: Thường xuyên chỉ đạo, làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền, vận động các tổ chức Hội, hội viên, vừa phát triển tổ chức rộng lớn, quan tâm nâng cao chất lượng, hình thức hoạt động phù hợp, hiệu quả, tạo phong trào sinh vật cảnh phát triển toàn diện, bền vững, lành mạnh.
Hai là: Bám sát các cơ chế, chính sách của Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn, kinh tế sinh vật cảnh. Chủ động, tích cực phối hợp thực hiện Chương trình phối hợp với Bộ NNPTNT. Đề xuất, phối hợp xây dựng nội dung, đề án hoạt động, chương trình hợp tác với các bộ, ngành, cơ sở đào tạo, đơn vị liên kết nhằm phục vụ mục tiêu phát triển toàn diện phong trào sinh vật cảnh, khẳng định vị thế, uy tín của Hội.
Ba là: Tích cực mở rộng hoạt động liên kết, hợp tác với các tổ chức, cơ sở, doanh nghiệp, hội viên liên kết. Tạo điều kiện thuận lợi cho các Hội thành viên, đơn vị trực thuộc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế sinh vật cảnh. Tạo điều kiện xây dựng, nhân rộng các mô hình sản xuất, kinh doanh, nhà vườn, làng nghề sinh vật cảnh. Chủ động phối hợp tổ chức các sự kiện triển lãm, hội chợ quy mô toàn quốc, khu vực gắn với các sự kiện chính trị, xã hội của đất nước và ngày truyền thống của Hội. Tham gia có trách nhiệm hoạt động triển lãm của Hiệp hội Bonsai - Suiseki Châu Á - Thái Bình Dương, các tổ chức sinh vật cảnh khu vực Đông Nam Á. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương tổ chức một số hội nghị, hội thảo, diễn đàn SVC; tham gia các đề án, chương trình SVC...
Bốn là: Thực hiện đầy đủ, trách nhiệm đơn vị thành viên với Ủy ban Trung ương MTTQVN và Liên hiệp các Hội KHKTVN. Bảo đảm quan hệ, trách nhiệm báo cáo tình hình, kết quả hoạt động với các Bộ, ban, ngành, cơ quan quản lý theo quy định.
Năm là: Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, động viên khích lệ tinh thần sáng tạo, phong trào sinh vật cảnh ở mọi cấp hội, đông đảo hội viên. Làm tốt công tác công nhận, tôn vinh, vinh danh các danh hiệu Nghệ nhân, Làng nghề, Nhà vườn.
Với nền móng xây bằng những kết quả của Nhiệm kỳ khóa VI và truyền thống hơn 32 năm hoạt động, bước sang năm Nhâm Dần và trong giai đoạn tới, Hội Sinh vật cảnh Việt Nam đang tràn đầy năng lượng tích cực, điều kiện thuận lợi để có những thành quả mới to lớn, phát triển bền vững, toàn diện hơn với phương châm:“Đoàn kết, Đổi mới, Sáng tạo, Phát triển”!
Tin tức khác