Thừa Thân Đạo
Cây Sứ Việt Nam thường gọi là Cây Sứ Đại, có tên khoa học là Plumeria obtura, thuộc họ Trúc Đào có nguồn gốc ở Châu Mỹ và đã du nhập và phân bổ rộng khắp các vùng miền Việt Nam đã lâu.
Cây Sứ Đại có thân gỗ trung bình cao từ 8 - 10m, thân tròn mập phân nhiều cành nhánh, màu da xù xì, vỏ cây có màu xám và xốp với những nét sẹo lá để lại, lá cây hình bầu dục thuôn dài, rộng ở giữa và hẹp lại hai đầu, lá có màu xanh bóng nhẵn ở mặt trên, lớp lông tơ mịn cùng với gân chính màu trắng và các gân viền ở mép nổi rõ ở mặt dưới lá.
Đây là loại cây bóng mát, mũ trắng, hoa thơm, hương thơm về đêm đậm đà hương sắc nhằm lôi kéo loài ong bướm thụ phấn cho chúng, hoa màu trắng có tâm vàng, cánh hoa dầy cuống thẳng hàng dài khoản 10 - 15 cm, hạt có cánh mỏng, được trồng bằng cách nhân giống lấy các đoạn cắt ra từ phía cành không để lá, để khô phần gốc trước khi cắm vào đất, cũng có thể giăm cành hay cho hạt nảy mầm, cây Sứ Đại được trồng nhiều làm cảnh vì có hoa trắng nhị vàng đẹp, hương thơm thoang thoảng, nhiều bộ phận của cây có thể dùng làm thuốc.
Lương y Vũ Quốc Trung (Hội viên Hội Đông Y Việt Nam) cho biết: cây hoa Sứ còn gọi là cây hoa Đại, các bộ phận của cây Sứ có thể dùng làm thuốc chữa bệnh mà dân gian đã phát hiện vào những năm 1960 như: Vỏ thân, rễ hoa, nụ hoa, lá tươi và nhựa cành, sử dụng nhiều nhất là hoa, toàn cây có chứa một loại kháng sinh thực vật là Fulua Plumierin, có tác dụng ức chế sự tăng sinh và phát triển của một số vi khuẩn Nycobac teriun Tubenculosis. Các bộ phận cây Sứ có những công dụng khác nhau:
- Vỏ thân, vỏ rễ: Trong vỏ thân có gluconit là Agoniadin và một chất đắng là plumierit, vỏ thân và rễ hơi có độc, vị đắng, tính mát. Dân gian sử dụng để làm thuốc, tẩy xổ (dùng 8-15g) nhuận tràng (dùng 3-5g) chữa táo bón (thay thế cho đại hoàng) và chữa thủy thủng, người suy nhược già yếu, tiêu chảy. Cần tham vấn thầy thuốc trước khi sử dụng, do các thành phần trong cây có tác dụng tẩy xổ khá mạnh và hơi có độc.
- Lá sứ: Kinh nghiệm dân gian dùng lá cây Sứ chữa bong gân, sai khớp, mụt nhọt.
- Nhựa mủ: Thành phần chủ yếu là axit plumerie. Cũng có thể dùng nhựa mủ để tẩy xổ, nhưng liều thấp hơn nhiều so với vỏ thân 0,5 -0,7g.
- Hoa: Hoa Sứ có công dụng tiêu đờm, trừ ho, hạ huyết áp, trong dân gian thường sử dụng hoa Sứ phơi khô để làm thuốc chữa bệnh ho, kiết lỵ… Hoa khô có tác dụng mạnh hơn hoa tươi, nên thu hái hoa khi vừa nở hết, phơi hay sấy khô để dùng lần.
Một số bài thuốc hay có dùng cây Sứ chữa cao huyết áp, bằng cách dùng như sau: hàng ngày sử dụng 12 - 20g hoa sứ (loại khô) đem sắc (nấu) lấy nước, uống thay trà trong ngày.
- Bong gân: Dùng một lá tươi rửa sạch, giã nhuyễn trộn với một ít muối đắp lên chỗ sưng. Lại dùng một ít lá tươi khác, hơ lên lửa cho héo và đắp phía ngoài rồi cố định bằng băng hoặc vải sạch, ngày đắp 1-2 lần liên tục như vậy 1-2 ngày.
- Đau nhức hay mụt nhọt cũng dùng lá tươi giã nhuyễn đắp vào.
- Chân răng sưng đau: Vỏ rễ ngâm rượu dùng ngậm rất hiệu quả (chú ý không được nuốt).
- Ho: Sử dụng 4-12g hoa Sứ khô, sắc lấy nước uống thay trà trong ngày (dùng hoa Sứ Đại cánh trắng tâm điểm vàng).
Ngày nay, cây Sứ Đại được trồng nhiều ở đình chùa, lăng miếu để tăng thêm vẻ uy nghi… Cây Sứ Đại có khả năng chịu hạn tốt, rất dễ trồng, hoa nở rất thơm về đêm, đậm đà hương sắc cho nên người ta thích trồng làm cây cảnh sân vườn, tạo bóng mát những nơi công cộng.
Theo Tạp chí VNHS
Tin tức khác