Tin khuyến nông: Kỹ thuật xanh, nông nghiệp sạch – Bước chuyển mình của nông thôn Việt Nam

Nông thôn Việt Nam đang thay đổi từng ngày khi khoa học kỹ thuật được ứng dụng sâu vào sản xuất. Các mô hình như ủ phân hữu cơ, trồng nấm rơm, phát triển vùng quế hay xây dựng vườn mẫu đang khẳng định hiệu quả của hướng đi xanh – sạch, góp phần làm giàu cho người dân và quê hương.
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tập huấn kỹ thuật ủ phân hữu cơ vi sinh tại Lâm Đồng

Ngày 16/10, tại phường Phan Thiết (tỉnh Lâm Đồng), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh Lâm Đồng tổ chức lớp tập huấn với chủ đề “Kỹ thuật ứng dụng công nghệ vi sinh xử lý môi trường từ phế phụ phẩm làm phân bón hữu cơ”. Đây là hoạt động nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ khuyến nông và người sản xuất trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường.

Tin khuyến nông: Kỹ thuật xanh, nông nghiệp sạch – Bước chuyển mình của nông thôn Việt Nam
Toàn cảnh lớp tập huấn 'Kỹ thuật ứng dụng công nghệ vi sinh xử lý môi trường từ phế phụ phẩm làm phân bón hữu cơ'. - (Ảnh: Kiều Hằng)

Lớp tập huấn thu hút sự tham gia của đông đảo cán bộ kỹ thuật, cán bộ khuyến nông, nông dân, chủ trang trại và thành viên các hợp tác xã thuộc khu vực Đông Nam của tỉnh. Trong thời gian 2 ngày (16 – 17/10), các học viên được trang bị những kiến thức cơ bản và thực hành về kỹ thuật ủ phân hữu cơ vi sinh từ phế phụ phẩm nông nghiệp, cùng với đó là tổng quan về nguồn phế phụ phẩm và tác động của chúng đến môi trường.

Nội dung tập huấn nhấn mạnh vai trò của công nghệ vi sinh trong xử lý môi trường, coi đây là giải pháp sinh học hiệu quả giúp phân hủy các chất ô nhiễm hữu cơ và vô cơ trong đất, nước và không khí. Việc sử dụng các chủng vi sinh vật hoặc enzyme trong quá trình xử lý không chỉ giúp giảm thiểu ô nhiễm mà còn tạo ra nguồn phân bón hữu cơ giàu dinh dưỡng, cải tạo đất và nâng cao năng suất cây trồng.

Bên cạnh phần lý thuyết, học viên được hướng dẫn thực hành trực tiếp các bước ủ phân hữu cơ vi sinh, lựa chọn nguyên liệu phù hợp, theo dõi quá trình phân hủy và đánh giá chất lượng sản phẩm. Đồng thời, các chuyên gia còn chia sẻ kinh nghiệm xây dựng mô hình xử lý phế phụ phẩm quy mô hộ gia đình và hợp tác xã, góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp tuần hoàn – hướng đi đang được khuyến khích trong chiến lược phát triển nông nghiệp xanh.

Theo đại diện Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, hiện nay, phần lớn phụ phẩm nông nghiệp ở nước ta như rơm rạ, vỏ cà phê, bã mía, phân gia súc… vẫn chưa được tận dụng hiệu quả, gây lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, nếu được xử lý và tái sử dụng đúng kỹ thuật, những nguồn nguyên liệu này có thể trở thành phân bón hữu cơ vi sinh có giá trị, giúp giảm chi phí đầu vào, tăng hiệu quả sản xuất và bảo vệ hệ sinh thái đất.

Thực tế cho thấy, nhiều địa phương đã bắt đầu chuyển đổi phương thức canh tác, áp dụng công nghệ vi sinh trong xử lý phế phụ phẩm để phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, tỷ lệ còn khiêm tốn do hạn chế về kỹ thuật và nhận thức. Vì vậy, các lớp tập huấn như tại Lâm Đồng được xem là cơ hội quan trọng để cán bộ khuyến nông và nông dân tiếp cận, học hỏi và lan tỏa mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ – bền vững, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xanh của ngành nông nghiệp.

Quảng Trị phát triển mô hình vườn mẫu – Hướng đi bền vững nâng cao thu nhập nông dân

Những năm gần đây, phong trào xây dựng vườn mẫu tại tỉnh Quảng Trị đã trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế nông thôn, góp phần quan trọng vào việc nâng cao thu nhập cho người dân, cải thiện cảnh quan và thúc đẩy chương trình xây dựng nông thôn mới theo hướng xanh – sạch – đẹp. Từ những khu vườn tạp kém hiệu quả, nhiều hộ dân đã mạnh dạn cải tạo, quy hoạch lại theo hướng khoa học, ứng dụng công nghệ hiện đại, hình thành nên những vườn mẫu cho năng suất cao, thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Tin khuyến nông: Kỹ thuật xanh, nông nghiệp sạch – Bước chuyển mình của nông thôn Việt Nam
Từ những vườn cây trĩu quả, những luống rau xanh mướt đến cảnh quan tươi mới của làng quê, phong trào vườn mẫu đang khẳng định vai trò thiết thực trong hành trình xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu của Quảng Trị.

Trước đây, khu vườn 2.000 m² của ông Cao Minh Hiền ở TDP Vân Bắc, phường Ba Đồn chỉ trồng các loại cây ăn quả địa phương. Khi có chủ trương thực hiện mô hình vườn mẫu, ông đã tiên phong quy hoạch lại toàn bộ diện tích, trồng 400 gốc ổi lê Đài Loan theo hàng lối ngay ngắn, lắp đặt hệ thống tưới và châm phân tự động đến từng gốc cây. Nhờ áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong chăm sóc và cắt tỉa, vườn ổi của ông cho trái quanh năm, chất lượng quả ngọt, giòn và được thương lái thu mua tại chỗ. Mỗi năm, vườn cung cấp khoảng 16 tấn ổi ra thị trường, mang lại thu nhập gần 300 triệu đồng, trở thành hình mẫu cho nhiều hộ dân trong vùng học tập.

Tại xã Cam Hồng, ông Hoàng Văn Trăm là một trong những nông dân tiêu biểu được công nhận vườn mẫu cấp huyện từ năm 2020 và cấp tỉnh năm 2021. Hơn 1.000 m² đất vườn được ông cải tạo, chia thành các khu vực hợp lý để trồng rau, hoa và cây ăn quả theo mùa. Mùa đông xuân, ông trồng đậu cô ve, mướp đắng và hoa cúc phục vụ thị trường Tết; mùa hè lại chuyển sang bầu, bí, mướp, rau gia vị… Tất cả đều được chăm sóc bằng hệ thống tưới nhỏ giọt và bón phân hữu cơ, đảm bảo sản phẩm sạch, an toàn. Nhờ cách làm này, gia đình ông có nguồn thu đều đặn quanh năm, đạt lợi nhuận khoảng 200 triệu đồng chỉ từ vườn mẫu, và tổng thu nhập từ nông nghiệp lên tới 400 triệu đồng/năm.

Theo Văn phòng Điều phối Nông thôn mới tỉnh Quảng Trị, toàn tỉnh hiện có 333 vườn mẫu được công nhận. Các khu vườn này đều có quy hoạch hợp lý, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đảm bảo tính thẩm mỹ và hiệu quả sản xuất. Cây trồng, vật nuôi được lựa chọn phù hợp với thổ nhưỡng và nhu cầu thị trường, đồng thời chú trọng yếu tố cảnh quan và bảo vệ môi trường sinh thái. Không chỉ mang lại giá trị kinh tế, các vườn mẫu còn góp phần định hình diện mạo nông thôn mới văn minh, xanh sạch và bền vững.

Sau khi sáp nhập địa giới hành chính, các địa phương trong tỉnh tiếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng vườn mẫu, coi đây là giải pháp trọng tâm để phát triển kinh tế vườn hộ gắn với xây dựng nông thôn mới nâng cao. Trên cơ sở bộ tiêu chí vườn mẫu, chính quyền các cấp đã phối hợp với các ngành chuyên môn rà soát, lựa chọn những khu vườn đủ điều kiện, hướng dẫn người dân quy hoạch, đầu tư và ứng dụng kỹ thuật mới. Nhiều địa phương còn ưu tiên bố trí nguồn vốn hỗ trợ, khuyến khích các hộ dân phát triển sản xuất theo hướng an toàn, hữu cơ, gắn với phát triển du lịch sinh thái và sản phẩm OCOP.

Có thể thấy, mô hình vườn mẫu ở Quảng Trị không chỉ là bước đi cụ thể trong chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang kinh tế nông nghiệp hiện đại, mà còn là hướng phát triển bền vững, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nông thôn. Từ những vườn cây trĩu quả, những luống rau xanh mướt đến cảnh quan tươi mới của làng quê, phong trào vườn mẫu đang khẳng định vai trò thiết thực trong hành trình xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu của Quảng Trị.

Phát triển vùng quế An Lương – Hướng đi hiệu quả trong cơ cấu cây trồng chủ lực

Xã An Lương (tỉnh Yên Bái) hiện được xem là một trong những vùng trọng điểm phát triển cây quế của địa phương với tổng diện tích duy trì ổn định trên 2.300 ha. Trong đó, diện tích quế đã cho thu hoạch đạt khoảng 1.100 ha, sản lượng vỏ quế hàng năm trên 1.500 tấn, mang lại giá trị trung bình trên 30 tỷ đồng. Đây là kết quả của sự nỗ lực đồng lòng giữa chính quyền và người dân trong việc phát huy lợi thế cây trồng truyền thống, gắn sản xuất với chế biến, tạo ra chuỗi giá trị bền vững.

Cây quế từ lâu đã trở thành biểu tượng gắn bó với đời sống của đồng bào Dao ở An Lương. Không chỉ là cây kinh tế, quế còn mang ý nghĩa văn hóa – tinh thần sâu sắc, góp phần định hình bản sắc vùng cao. Nhờ biết tận dụng triệt để giá trị của cây quế, từ vỏ, thân cho đến cành lá đều được chế biến hoặc sử dụng làm nguyên liệu, người dân An Lương đã nâng cao đáng kể thu nhập, ổn định cuộc sống.

Nhận thấy tiềm năng to lớn của loại cây đặc sản này, Đảng ủy và chính quyền xã An Lương đã xác định phát triển quế là hướng đi trọng tâm trong cơ cấu cây trồng chủ lực. Bên cạnh cây lúa, sắn, ngô, xã chỉ đạo người dân hàng năm trồng mới, trồng dặm trên những diện tích đã khai thác, từng bước mở rộng quy mô theo hướng thâm canh bền vững. Việc tổ chức tập huấn kỹ thuật, khuyến khích người dân tham gia các tổ hợp tác, liên kết tiêu thụ sản phẩm cũng được chú trọng, giúp quế An Lương ngày càng khẳng định vị thế trên thị trường.

Nhờ làm tốt công tác chăm sóc, bảo tồn và phát triển, vùng quế An Lương không chỉ trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện Văn Chấn mà còn là minh chứng cho hướng đi đúng đắn trong việc phát huy cây trồng bản địa, gắn kết giữa kinh tế và văn hóa, đem lại cuộc sống ấm no, bền vững cho người dân vùng cao.

Từ đồng ruộng đến nhà trồng: Câu chuyện đổi mới trong sản xuất nông nghiệp ở An Giang

Từ những phụ phẩm tưởng chừng bỏ đi sau mỗi vụ mùa, người dân xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang đã “biến rơm thành vàng” nhờ mô hình trồng nấm rơm dạng trụ trong nhà. Đây là mô hình kinh tế mới được triển khai trong khuôn khổ Dự án Mekong NbS giai đoạn 2023 – 2025, hướng đến phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và nâng cao thu nhập cho nông dân vùng đất ngập nước.

Tin khuyến nông: Kỹ thuật xanh, nông nghiệp sạch – Bước chuyển mình của nông thôn Việt Nam

Nếu trước đây, rơm rạ thường bị đốt bỏ sau thu hoạch gây ô nhiễm môi trường, thì nay, dưới sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật và Dự án Mekong NbS, phụ phẩm này đã trở thành nguồn nguyên liệu quý để nuôi trồng nấm rơm. Những ngôi nhà trồng nấm rộng từ 30 – 60m² với hàng trăm trụ nấm được xếp ngay ngắn, từng cụm nấm trắng ngần đang vào vụ thu hoạch là hình ảnh quen thuộc ở Thạnh Mỹ Tây – nơi đang chứng kiến bước chuyển mình mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp.

Thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện thời tiết như phương pháp truyền thống, 13 hộ dân tại địa phương đã được tập huấn và áp dụng kỹ thuật trồng nấm rơm trong nhà. Mỗi đợt canh tác kéo dài khoảng 2 tháng – đúng chu kỳ sinh trưởng của nấm, với quy mô từ 30 – 60 trụ mỗi hộ. Cách làm này giúp dễ dàng quản lý, tiết kiệm công chăm sóc và đạt hiệu quả kinh tế rõ rệt.

Ưu điểm nổi bật của mô hình trồng nấm rơm dạng trụ trong nhà là khả năng kiểm soát hoàn toàn các yếu tố môi trường như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, giúp nấm phát triển đồng đều, hạn chế sâu bệnh và đạt chất lượng cao hơn. Đặc biệt, mô hình có thể triển khai quanh năm, tận dụng tối đa thời gian nông nhàn và không gian nhỏ hẹp của các hộ dân.

Để khuyến khích nông dân tham gia, Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) – đơn vị triển khai dự án Mekong NbS – đã hỗ trợ vật tư thiết yếu như rơm, meo giống, bông gòn, máy phun sương tạo ẩm, đồng thời cử cán bộ kỹ thuật trực tiếp hướng dẫn, tư vấn để nông dân nắm vững quy trình trồng và chăm sóc. Nhờ vậy, ngay trong vụ đầu tiên, năng suất nấm đạt 2 – 3,5 kg nấm tươi mỗi trụ, mang lại thu nhập ổn định, giúp nhiều hộ dân cải thiện đời sống.

Hiệu quả rõ rệt từ mô hình đã mở ra hướng phát triển kinh tế mới, đồng thời góp phần giảm thiểu ô nhiễm, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp và xây dựng nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn. Chính quyền địa phương cùng Dự án Mekong NbS đang tiếp tục xem xét mở rộng mô hình ra nhiều xã khác của tỉnh, biến An Giang trở thành điểm sáng trong đổi mới sản xuất nông nghiệp bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Tánh Chân